Những người ham mê công nghệ đều muốn vượt qua giới hạn tốc độ của bộ vi xử lí .
Nỗ lực đầu tiên để chạy ép xung đó là thay thế bộ tạo xung nhịp đồng hồ tinh thể , nhưng điều này đã thay đổi nhanh chóng bằng việc thay đổi tốc độ Bus hệ thống  qua những khóa hoặc Jumper trên Motherboard .
Bộ phận nhân tần xung nhịp nội bộ đã được giới thiệu nhưng không lâu sau nó đã bị khóa khi mà những người bán hàng vô đạo đức đã loại bỏ tốc độ làm việc chính thức mà thay thế bằng tốc độ cao hơn . Bus hệ thống  đã đóng vai trò quan trọng để chạy ép xung khi ấy nhưng những chuyên gia chạy ép xung lại tìm cách để thay đổi những thông số kỹ thuật điện tử để  tăng khả năng Overclock .
Dưới đây là một số cột mốc đánh dấu khả năng chạy ép xung của các bộ vi xử lí  .
Intel 486DX2-40 , phát hành 3/1992 , tốc độ chuẩn 40MHz và 50MHz , Overclock 66MHz ( tăng gần 65% ) .
Bộ vi xử lí  486DX2 sử dụng bộ nhân tần xung nhịp CPU , cao gấp đôi so với tốc độ Bus hệ thống  , trong khi đó tốc độ Bus hệ thống  lại được cấu hình thông qua Jumper hoặc khóa DIP . Ban đầu có những sự lựa chọn tốc độ Bus 20 , 25 và 33 MHz nên người dùng có cách để chạy ép xung mà không cần phải hàn lại và thay thế bộ dao động tốc độ xung nhịp .
Khi ấy thay vì phải mua DX2-66 với giá 799$ , người dùng chỉ cần mua 486DX2-40 với giá 400$ sau đó nâng tốc độ Bus ngầm định từ 20MHz thành 33MHz .
Do vấn đề ổn định và khe cắm VLB khi tốc độ Bus cao hơn 33MHz vì thế mà chạy Overclock lúc đó bị hạn chế bởi tốc độ 80MHz ( 40MHz x 2 ) .
Intel Pentium MMX 166 407$ , phát hành 8/1/1997 , tốc độ chuẩn 166MHz , Overclock 207-266MHz ( tăng gần 54% ) .

Để tránh những điều gian trá từ các nhà bán lẻ , Pentium MMX đã khóa giới hạn trên của bộ nhân tần vì thế để chạy ép xung chỉ dựa vào tăng tần số Bus . Bộ vi xử lí  MMX không  khóa tỉ lệ nhân tần cung cấp nhiều sự lựa chọn cho những tay ham mê công nghệ và chip MMX 233 không  khóa khi ấy có giá 594$ .
MMX 166 407% là sự lựa chọn tối ưu đi kèm với Motherboard dùng chipset 430TX có tốc độ Bus 75MHz và có thể đẩy tốc độ bộ vi xử lí  lên 225MHz hoặc 266MHz bằng cách tăng tỉ lệ nhân tần lên 3 hoặc 3.5 .
Để vượt qua tốc độ 200MHz thì MMX 166 đã bị khóa nhân tần dùng Jumper 83MHz ( 83 x 2.5 = 207 ) nhưng khả năng chạy ổn định và nhiệt lượng tỏa ra tại Bus này gây nhiều phiền toái và
Intel Celeron 300A 149$ , phát hành 24/8/1998 , tốc độ chuẩn 300MHz , chạy Overclock lên tới 375-504 MHz ( gần 55% )

Celeron 300A là bộ vi xử lí  chủ đạo chạy ép xung trong những năm cuối của thập kỉ 1990 . Việc chạy ép xung 50% để đạt tới tốc độ 450MHz chỉ đơn giản bằng cách thay tốc độ Bus từ 66MHz lên 100MHz . Mặc dù một số Motherboard chỉ có thể đạt tốc độ Bus cao nhất là 83.3MHz nên tốc độ CPU khi ấy đạt được 375MHz , một số Motherboard khác lại có thể đạt tới tốc độ Bus FSB 103MHz nên đẩy CPU lên tới 464MHz .
Với một bộ vi xử lí tốt hơn và tăng điện áp làm việc có thể chạy được với Bus FSB 112MHz khi ấy tốc độ CPU đạt 504MHz .
Nhưng thông thường không  cần tăng điện áp Celeron 300A dễ dàng đạt được tới tốc độ 450MHz và hiệu suất làm việc khi ấy cũng tăng lên đáng kể nhất là với sự trợ giúp của Cache L3 On-Die .
cũng đòi hỏi chất lượng bộ nhớ RAM EDO/SDRAM khi ấy cũng phải chạy theo tần số này .
Intel Pentium III 500E , phát hành 25/10/1999 , tốc độ chuẩn 500MHz , Overclock 667-775 MHz ( tăng gần 50% ) .
Coppermine Pentium III 500E và 550E có khả năng chạy Overclock khi mà tốc độ Bus FSB chuẩn của nó là 100MHz . Những bộ vi xử lí  loại này đã tích hợp Cache L2 . Với giá cả phải chăng 239$ và có thể kết hợp dùng với những Motherboard Slot 1 cũ hơn nhờ thông qua Adapter chuyển đổi Socket 370 thành Slot 1 cho phép nâng cao hiệu suất làm việc của hệ thống  một cách đơn giản .
500E có thể dễ dàng chạy được tới tốc độ 667MHz bằng cách thiết lập tốc độ Bus FSB lên 133MHz  trong lựa chọn BIOS , hoặc có thể sử dụng những khóa DIP trên Adapter chuyển đổi trên để chạy ép xung . Với những Motherboard tốt hơn có thể đẩy tốc độ lên tới 750MHz bằng việc cấu hình tốc độ FSB 150MHz , sẽ có hiệu suất làm việc gần tương đương với Pentium III 800MHz 850$ .
Tuy nhiên cũng có một số vấn đề khi chạy ép xung , bao gồm Motherboard cần hỗ trợ AGP và bộ chia tốc độ PCI ( 1:2 và 1:4 tương ứng ) để bảo đảm chạy ổn định cho những bộ phận đi kèm và bộ nhớ RAM PC133 .
AMD Athlon 700 (Thunderbird) / Duron 600 (Spitfire) , ngày phát hành 5/7/2000 (Athlon 700) / 19/6/2000 (Duron 600) ; tốc độ 700MHz / 600MHz , Overclock 770 – 900MHz (gần 12%) / 800-1000MHz (gần 59%)
Thunderbird là giấc mơ của những tay ham mê công nghệ . AMD đã khóa điện áp và bộ phận nhân tần trong dòng K7 của mình với mục đích ngăn chặn những nhà sản xuất xấu đẩy tốc độ bộ vi xử lí  lên cao hơn so với tốc độ chuẩn . Tuy nhiên những tay chuyên chạy ép xung đã nhanh chóng nhận ra rằng cầu mạch điện bên trong bộ vi xử lí  đóng vai trò quan trọng để thực hiện việc mở khóa .
Ban đầu , sự kết hợp của những cầu kết nối trong khối L3 , L4 và L6 là cách để có thể liên hệ tới những kết nối L1 để mở khóa bộ nhân tần . Cầu nối những kết nối L7 để thay đổi điện áp lõi cũng là sự lựa chọn để dễ dàng chạy Overclock .
Bus hệ thống  EV6 của AMD cũng rất dễ dàng để chạy Overclock , chạy ép xung bộ nhân tần cho phép Duron dễ dàng thực hiện công việc này khi hoạt động điện áp cơ bản thấp hơn ( 1.5V so với 1.7/1.75V ) nhưng cũng có thể đẩy lên tới điện áp cao hơn lên tới 1.85V .
Với giá 112$ và một chút thời gian , Duron 600 dễ dàng chạy ép xung để đạt hiệu suất làm việc cao tương tự như những bộ vi xử lí  đắt tiền khác .
Intel Pentium 4 1.6A / Celeron 2.0 (Northwood) , phát hành 7/1/2002 (Pentium 4) và 18/9/2002 (Celeron 2.0) , tốc độ chuẩn 1.6GHz / 2.0 GHz , Overclock 2.4-2.8GHz ( gần 48%) / 2.66-3GHz ( gần 46%) .

Northwood xuất hiện được chào đón sau những thất vọng với Willamette . Willamette chạy quá nóng nên không thể Overclock và những chip Pentium 4 tốc độ cao chạy không  hiệu quả bằng Athlon XP .
Pentium 4 1.6A có giá 125$ đã khắc phục những nhược điểm của Willamette khi mà tốc độ FSB cơ bản là 100MHz và có thể dễ dàng đẩy lên tới 150MHz để đạt tới tốc độ CPU 2.4GHz .
Overclock chip Celeron còn cao hơn nhờ vào bộ nhân tần lên tới 20x , mặc dù còn hạn chế nhiều khi mà bộ nhớ Cache L2 chỉ có 128KB . Để chạy Overclock tốc độ cao hơn cần đẩy điện áp lõi cao hơn 1.6V thông qua thiết lập trong BIOS hoặc dùng dây để kết nối tới những chân để nâng giới hạn điện áp Vcore .
AMD Athlon XP 1700+ (Thoroughbred-B) , phát hành 10/6/2002 , tốc độ chuẩn 1.46GHz , Overclock 2.2 – 2.5GHz ( gần 44% ) .
Thoroughbred-A ban đầu ít nhiều là phiên bản thu nhỏ của Palomino trước kia nên khi đưa ra sản phẩm cuối cùng đã gây sự thất vọng với người dùng  . Tháng 6/2002 AMD đã giới thiệu Thoroughbred-B có nhiều cải tiến trong sản xuất bằng công nghệ 130nm và kết quả là có tần số làm việc cao hơn , khả năng chạy Overclock cao hơn khi tăng điện áp làm việc của lõi .
Kết hợp với Motherboard dùng chipset nForce 2 Thoroughbred-B XP 1700+ giá 60$ có khả năng chạy với tốc độ gần 2GHz với điện áp ngầm định . Với Motherboard nForce 2 có khả năng đẩy tốc độ Bus vượt qua 200MHz , bộ vi xử lí  này có thể chạy Overclock 40% khi dùng điện áp 1.7V có hiệu suất làm việc gần tương đương với chip cao cấp khi ấy là AMD Athlon XP 2800+ 397$ và vượt qua cả Intel Pentium 4 .
AMD Athlon XP-M 2500+ (Barton , TDP 45W) , phát hành 12/3/2003 , tốc độ chuẩn 1.87GHz , Overclock 2.4 – 2.7 GHz ( gần 32% )
Đầu năm 2004 , sự chú ý của cộng đồng Overclock đổ dồn vào những chip Barton mobile có bộ phận nhân tần không khóa và làm việc được với điện áp thấp ( 1.45V so với 1.65V của chip cho máy để bàn ) . Những yếu tố này rất quan trọng để chạy Overclock trong khi đó lại thiếu ở những model dùng cho máy để bàn .
Khi tiềm năng chạy Overclock cao được công bố thì giá của bộ vi xử lí  này đã tăng hơn 30% trong những tuần sau đó so với giá trung bình 75$ . Cùng với sự kết hợp của Motherboard nForce 2 , giải pháp làm mát hợp lí và điện áp có thể đẩy lên tới 1.8V và thậm chí còn cao hơn nên Barton dễ dàng chạy Overclock cao hơn từ 30-40% . Vì nhờ tốc độ Overclock ấn tượng Athlon XP-M 2500+ nên có hiệu suất làm việc gần bằng với những chip Athlon 64 mới lúc đó mà không phải trả tới 200$ cho tới 400$

Bài viết liên quan
ĐẶT LỊCH
MIỄN PHÍ
HOTLINE
09 241 242 43
ĐẶT LỊCH
MIỄN PHÍ
HOTLINE
09 241 242 43